3 nguyên nhân khiến ý tưởng kinh doanh của bạn không được chú ý
 -  6.333 Lượt xem
(Doanh nhân thời đại) Sự thật là hầu hết các ý tưởng kinh doanh đều vô dụng, rất ít ý tưởng độc đáo và rất nhiều ý tưởng đã từng được thử nghiệm trước đây.
“Hãy tạo ra một chiếc bẫy chuột tốt hơn, rồi cả thế giới sẽ ùn ùn kéo đến nhà bạn” là lời cổ vũ được gán cho triết gia nổi tiếng người Mỹ - Ralph Waldo Emerson (mặc dù ông không viết như vậy). Tuy nhiên, bất chấp việc câu nói này có phải của Emerson hay không, thì kể từ khi nó ra đời, hàng ngàn chiếc bẫy chuột khác nhau đã liên tiếp được cấp bằng sáng chế. Song, mặc cho vô vàn ý tưởng sáng tạo cũng như tâm huyết được đổ dồn vào việc cải tiến những chiếc bẫy, loại bẫy chuột kiểu giật cổ điển được phát minh bởi William Hooker vào năm 1894 vẫn phổ biến nhất.
Từ đó, có thể thấy rằng, con người chúng ta đã và đang sa đà vào việc đề cao ý tưởng cũng như cho rằng việc sở hữu nhiều ý tưởng sẽ mang đến kết quả tốt hơn. Việc đề cao và cổ súy cho ý tưởng đã tạo ra một làn sóng mạnh mẽ những chuyên gia tư vấn thi nhau cung cấp các buổi hội thảo để giúp chúng ta thể hiện khả năng sáng tạo của mình thông qua nhiều công cụ như brainstorming hay phân tích SWOT v.v.. Chúng ta, theo một cách nhìn rộng hơn, vẫn đang theo đuổi việc tạo ra những chiếc bẫy chuột tốt hơn.
Sự thật là vậy, cũng giống như có cả ngàn bằng sáng chế về bẫy chuột, hầu hết các ý tưởng đều là vô dụng, có rất ít ý tưởng độc đáo và rất nhiều trong số chúng đã từng được thử nghiệm trước đây. Thế nên, nếu bạn đang thất vọng vì không ai để ý đến ý tưởng của mình, thì dưới đây là những nguyên nhân tại sao điều đó xảy ra và bạn có thể làm gì để khắc phục tình trạng đó
1. Ý tưởng của bạn không độc đáo
Có một ý tưởng mới là điều khá xúc động, bởi vì nó đưa ta tới những nơi hoàn toàn mới. Một khi chúng ta đã có một ý tưởng, nó sẽ dẫn dắt ta tới các ý tưởng khác, và khi chúng ta tiếp tục đi theo mạch suy nghĩ đó, chúng ta có thể nhận ra những kết quả quan trọng ngoài thực tế. Được thấy từng chấm, từng nét trong ý tưởng của mình từng bước hình thành mang lại cảm giác cực kỳ sung sướng, tới mức khiến chúng ta mặc định rằng, ý tưởng của bản thân dường như không thể bị trùng lặp với một ai khác tại cùng một thời điểm.
Tuy nhiên, lịch sử đã cho thấy rõ ràng rằng, đó chính xác là điều đã từng xảy ra. Newton và Leibniz đồng thời phát minh ra phép vi tích phân. Darwin và Wallace cùng khám phá ra các học thuyết của sự tiến hóa gần như cùng thời điểm. Alexander Graham Bell chỉ nhỉnh hơn một chút trong việc đánh bại Elisha Gray để có được bản quyền phát minh ra điện thoại. Hay chỉ sớm hơn vài tuần, Einstein đã chiến thắng David Hilbert về việc đăng ký phát minh ra thuyết tương đối.
Thực tế, trong một nghiên cứu mang tính bước ngoặt được xuất bản năm 1922, hai nhà xã hội học William Ogburn và Dorothy Thomas đã xác định được 148 phát minh hoặc khám phá mang tính then chốt đã được ít nhất 2 người khác nhau, làm việc độc lập, cùng khám phá ra tại cùng thời điểm. Và, đó là những sự thành công mang tính lịch sử, đã được ghi chép đầy đủ. Những phát minh quan trọng mà vẫn trùng lặp đến vậy, thì bạn có thể tưởng tượng ra mức độ trùng lặp với những ý tưởng thường ngày sẽ như nào.
Thực tế, trong một nghiên cứu mang tính bước ngoặt được xuất bản năm 1922, có hẳn 148 phát minh hoặc khám phá mang tính then chốt đã được ít nhất 2 người khác nhau, làm việc độc lập, cùng khám phá ra tại cùng thời điểm. Ảnh: iStock
Sự thật là các ý tưởng không phải tự nhiên mà sinh ra. Chúng ta có được những ý tưởng mới bằng việc tạo ra các kết nối giữa những ý tưởng đang có và những điều mới mà chúng ta nhận biết được. Vậy nên, sẽ không phải là điều ngạc nhiên nếu những người khác đã từng nhìn thấy điều tương tự, và đưa ra những kết luận tương tự, giống như chúng ta.
2. Những người khác cũng có cùng ý tưởng – và đã thất bại
Jim Allison đã dành hầu hết cuộc đời của ông để làm việc với tư cách là một nhà khoa học đơn thuần, và đó là tất cả những gì mà ông muốn. Vốn là người “thích nghiền ngẫm và giải quyết mọi thứ”, Allison cũng có được một chút tiếng tăm trong lĩnh vực miễn dịch học với những khám phá khiến các nhà khoa học khác phải quan tâm.
Con đường sự nghiệp của Allison rẽ lối khi ông bắt đầu nghiên cứu khả năng của hệ thống miễn dịch để chống lại bệnh ung thư. Bằng cách sử dụng một phương pháp tiếp cận mới lạ, ông đã có thể đưa ra các kết quả đáng kinh ngạc ở chuột. Ông nói: “Các khối u tan đều tan biến”. Và, rất vui mừng, ông chạy đi thông báo cho các công ty dược về ý tưởng của mình, để mong họ đầu tư vào việc nghiên cứu này.
Nhưng không may, họ không thấy có gì ấn tượng cả. Vấn đề không phải là họ không hiểu ý tưởng của Jim, mà là họ đã đầu tư từ trước, và đã lãng phí, hàng tỷ USD vào những ý tưởng tương tự. Hàng trăm cuộc thử nghiệm cũng như nhiều phương hướng tiếp cận khác nhau đã được triển khai và đáng buồn thay, không có bất cứ thành công thật sự nào cả,
3. Bạn không thể tự mình biến một ý tưởng thành hiện thực
Một trong những câu chuyện nổi tiếng nhất về sự đổi mới là của Alexander Fleming. Quay lại phòng thí nghiệm của mình sau kì nghỉ hè, Fleming nhận ra có một loại nấm mốc bí ẩn đã xâm chiếm vào đĩa petri của ông (đĩa Petri là một loại đĩa bằng thủy tinh hoặc chất dẻo, dạng hình trụ, có nắp đậy mà các nhà sinh vật học sử dụng để nuôi cấy tế bào hay những cây rêu nhỏ), và nó đã tiêu diệt những vi khuẩn mà ông đang nuôi cấy. Ông quyết định nghiên cứu loại nấm mốc này và sau đó đã khám phá ra penicillin - chất kháng sinh được sử dụng nhiều nhất thế giới.
Đó là một trong những câu chuyện được kể đi kể lại bởi vì nó là một đại diện điển hình cho việc yêu thích sự đổi mới để thay đổi thế giới của chúng ta. Vấn đề là, nói chung, sự đổi mới chưa bao giờ thực sự diễn ra theo cách như vậy, và chắc chắn không giống như trường hợp tìm ra penicillin.
Câu chuyện thực tế đã diễn ra theo cách khác. Khi Alexander Fleming công bố các phát minh của mình, không ai thực sự chú ý tới nó, bởi vì có quá ít giá trị về mặt y học. Nó chỉ đơn giản mô tả về sự bài tiết của một loại nấm mốc có thể giết chết các vi khuẩn trong một chiếc đĩa petri. Việc điều chế lại không ổn định và người ta còn không thể lưu trữ nó. Nó cũng không thể dùng qua đường tiêm hoặc qua đường tiêu hóa. Cuối cùng, không thể tạo ra đủ số lượng cần thiết để cứu chữa cho bất kỳ ai.
Khi Alexander Fleming công bố các phát minh của mình, không ai thực sự chú ý tới nó, bởi vì có quá ít giá trị về mặt y học. Ảnh: Artuk
Tận 10 năm sau, một nhóm các nhà khoa học hoàn toàn khác do Howard Florey và Ernst Chain dẫn đầu đã xem xét lại công việc của Fleming và bắt đầu đưa thêm các ý tưởng của họ vào. Sau đó, họ tới Hoa Kỳ, cộng tác với các phòng thí nghiệm ở đó và cải thiện quá trình nghiên cứu. Cuối cùng, các công ty dược đã làm việc sốt sắng để sản xuất đại trà penicillin. Đằng sau một penicillin mà chúng ta biết ngày nay không phải là công sức của một cá nhân hay một “khoảnh khắc Eureka !” nào cả, mà là sự đóng góp của hàng loạt con người trong quãng thời gian gần 20 năm.
Sự khác biệt cơ bản giữa ý tưởng và sự sáng tạo
Trong khi hầu hết ý tưởng chẳng đi đến đâu, một số lại tạo ra được những giá trị to lớn. Bất kể ai là người phát hiện ra trước, thì phép vi tích phân hay điện thoại di động đều đã giúp cho cuộc sống của chúng ta trở nên tốt đẹp hơn. Đó không phải nhờ vào bản thân các ý tưởng, mà là ở những gì được xây dựng dựa trên chúng. Các ý tưởng chỉ tạo ra các tương lai tốt đẹp hơn khi chúng được kết hợp với các ý tưởng khác. Sự đổi mới, ở một mức độ lớn hơn, chính là sự kết hợp.
Câu chuyện của Alexander Fleming và Jim Allison là ví dụ điển hình. Trong trường hợp của Fleming, các nhà khoa học ở một phòng thí nghiệm khác đã kết hợp với ý tưởng ban đầu của ông và thành công tạo ra một phương thuốc hữu hiệu. Sau đó, họ lại tới Hoa Kỳ để làm việc cùng với các phòng thí nghiệm khác và rồi cuối cùng, các công ty dược phẩm cũng góp một phần công sức không nhỏ, mới khiến cho penicillin được sản xuất đại trà như hiện nay.
Còn Jim Allison, khi chia sẻ làm cách nào có được ý tưởng cho liệu pháp miễn dịch ung thư, ông đã nói nó không hề đến trong phút chốc, mà đến từ việc kết hợp công việc của nhiều người khác với những gì bản thân nghiên cứu. Khám phá mang tính đột phá đó là tâm huyết cả đời làm việc của ông.
Kevin Ashton, người đầu tiên đưa ra ý tưởng về các con chip RFID (Radio Frequency Identification - Nhận dạng qua tần số vô tuyến, là một công nghệ dùng kết nối sóng vô tuyến để tự động xác định và theo dõi các thẻ nhận dạng gắn vào vật thể) đã viết trong cuốn sách của mình mang tên How to Fly a Horse: “Sự sáng tạo là một hành trình dài, nơi hầu hết những lối rẽ đều sai lầm và hầu hết đều kết thúc bằng ngõ cụt. Điều quan trọng nhất mà những nhà sáng chế làm là tiếp tục làm việc. Điều quan trọng nhất mà họ không làm là từ bỏ”.
Một ý tưởng tốt không phải chỉ gói gọn trong một khoảnh khắc lóe sáng, mà là một lời kêu gọi hành động. Giá trị của nó không phải được quyết định bởi sự xuất sắc về mặt lý thuyết, mà nằm ở khả năng giải quyết các vấn đề thực tế. Vậy nên, nếu bạn muốn mọi người lắng nghe những ý tưởng của mình, đừng quá để tâm vào việc bạn sở hữu chúng, mà hãy tập trung vào những gì mà chúng có thể mang đến cho người khác.
Nguồn: Inc/ DNSG